Máy đo nồng độ Oxy trong máu (SPO2) và nhịp tim cá nhân Beurer P030 hiện đại
Giá: 1 290 000 đồng
Liên hệ: 094 602 1368
Website: banhangcongnghe.com
Thông số kĩ thuật của máy đo nồng độ Oxy trong máu (SPO2) và nhịp tim cá nhân Beurer P030:
Model PO30 Nhãn hiệu Beurer Xuất xứ CHLB Đức Kích thước (D * R * C) 10cm * 5cm * 3cm Trọng lượng 0.2 kg Màn hình LCD Bảo hành 24 tháng Dấu hiệu sinh tồn (Vital signs) là gì?
Dấu hiệu sinh tồn là những con số được đo bằng thiết bị, kye thuật khác nhau nhằm đánh giá những chức năng cơ bản của cơ thể sống ( đây là thứ không thể thiếu trong bệnh án và khi tiến hành trình bày bất kì vấn đề gì về bệnh nhân).
Người ta đánh giá sự tồn tại của con người qua 4 dấu hiệu sinh tồn sau: mạch, nhiệt độ, huyết áp, nhịp thở và với sự phát triển của y học thì ngày nay người ta đã bàn nhiều tới một dấu hiệu sinh tồn mới đó là SPO2 (nồng độ Oxy trong máu).
SPO2 là gì?
Con người không thể tồn tại nếu thiếu Oxy. Khí Oxy có trong khí trời, khi chúng ta thở Oxy sẽ vào phổi. Thành phần quan trọng nhất của máu là Hemoblobine (Hb) sẽ vận chuyển Oxy từ phổi đến các nơi cần thiết trong cơ thể để đảm bảo cuộc sống. Sự vận chuyển đó xảy ra khi Hb kết hợp với Oxy thành HbO2.
Tỷ lệ HbO2 / (HbO2 + Hb) gọi là độ bão hòa Oxy trong máu SPO2, nói cách khác là tỷ lệ phần trăm Hemoglobine của máu kết hợp với Oxy.
Những đặc điểm nổi bật của máy đo nồng độ Oxy trong máu (SPO2) và nhịp tim cá nhân Beurer P030: Máy đo nồng độ Oxy PO30 có kích thước nhỏ gọn, thiết kế sang trọng tiện dụng, bạn có thể dễ dàng sử dụng tại nhà hoặc mang đi theo bất kì đâu.
Beurer PO30 tích hợp công nghệ dạng sóng thể tích đồ, tần số xung nhịp để đo sự bão hòa Oxy(SPO2) trong mạch máu và đo nhịp tim nhằm hạn chế những điều không mong muốn xảy ra đối với những người thiếu Oxy trong máu.
Máy đo nồng độ Oxy trong máu (SPO2) và nhịp tim cá nhân Beurer P030 có thể sử dụng được với hầu hết các bệnh nhân từ trẻ sơ sinh, trẻ em và người lớn mắc các bệnh như bệnh nhân bị bệnh tim, hen suyễn, huyết áp thấp...
Máy đo nhịp tim Beurer PO30 có màn hình hiển thị LCD sắc nét tiện theo dõi cho người dụng, máy vận hành dễ dàng, hiệu quả, đơn giản, hoàn toàn không đau khi đo, pin sử dụng theo máy có thời gian vận hành lâu, giảm tối đa những chi phí phát sinh.
Máy đo nồng độ Oxy trong máu Beurer thích hợp sử dụng trước khi chơi các môn thể thao ở độ cao như leo núi, các môn thể thao hàng không...để biết tình trạng sức khỏe có phù hợp khi tham gia hay không tránh các trường hợp quá sức và gây hiệu quả không mong muốn.
Nguyên lý hoạt động máy đo nồng độ Oxy trong máu (SPO2) và nhịp tim cá nhân Beurer P030: Beurer PO30 đo độ bão hòa Oxy máu theo mạch đập hoạt động dựa trên cơ sở phép đo quang phổ kế (sắc ký) và phép đo xung động kế (xung động ký).
Phép đo sắc ký hoạt động dựa trên cơ sở độ hấp thụ ánh sáng xủa Hemoglobin (Hb) và Oxyhemoglobin (HbO2) khác nhau đối với 2 bước sóng khác nhau của ánh sáng đỏ(660nm) và ánh sáng hồng ngoại (905nm).
Phép đo xung động ký hoạt động dựa trên cơ sở độ hấp thụ ánh sáng truyền quy mô thay đổi có tính chu kỳ do sự thay đổi thể tích máu giữa kỳ tâm thu và tâm trương.
Những người có nguy cơ thiếu Oxy:
- Người bị tắc nghẽn đường hô hấp vì bất cứ nguyên nhân gì như đờm, dãi, dịch, dị vật, co thắt sưng nề.
- Người bị hạn chế hoạt động của lồng ngực như hậu phẫu ở bụng, chấn thương lồng ngực, bệnh lý của cột sống, tình trạng viêm nhiễm (viêm phúc mạc).
- Người bị suy giảm chức năng của hệ thống thần kinh có tham gia quá trình hô hấp như viêm não, chấn thương sọ não, hôn mê, bệnh nhân được gây mê toàn thân, tai biến mạch máu não và các bệnh gây tê liệt như bại liệt, đa xơ cứng.
- Người bị cản trở sự khuếch tán của khí trong phổi: tình trạng này thường do khối u trong phổi và các bệnh khí phế thũng, tắc mạch phổi và chấn thương.
- Người bị thiếu Oxy trong không khí do điều kiện, hoàn cảnh môi trường ví dụ môi trường quá nóng, quá nhiều khói, sương hoặc không khí quá loãng ở nơi có áp suất khí quyển cao (môn leo núi, hàng không,...).
Các triệu chứng của bệnh thiếu Oxy: - Thiếu Oxy do hô hấp:
+ Bệnh độ cao: Là hiện tượng thiếu oxy cấp tính khi chúng ta lên cao đột ngột trên 3.000m hoặc bay cao trên mức giới hạn mà không có hoặc bị hỏng bình oxy. Các triệu chứng của bệnh xuất hiện phụ thuộc vào độ cao và sức chịu đựng của mỗi người. Dấu hiệu sớm nhất là các rối loạn thần kinh, bạn sẽ cảm thấy mệt mỏi, nhức đầu, giảm trí nhớ, phản xạ chậm chạp, buồn nôn, rối loạn thị giác, nhìn mờ, hoa mắt; rối loạn thính giác nghe kém, ù tai, nôn, tim đập nhanh, yếu, có thể loạn nhịp.
+ Bệnh núi cao: là hiện tượng thiếu oxy cấp khi bạn leo lên núi cao trên 3000m như đi du lịch, leo núi. Ở đây bạn lên cao từ từ, khác "bệnh độ cao" là lên cao đột ngột trong thời gian ngắn, cơ thể không kịp thích ứng. Nguy hiểm của thiếu oxy cũng phụ thuộc vào độ cao và các yếu tố: mệt mỏi thể chất, lạnh hoặc nắng nóng. Khi lên cao trên 3000m, bạn sẽ thấy các dấu hiệu thiếu oxy bắt đầu xuất hiện: Hưng phấn thần kinh, trạng thái kích thích, khoan khoái, hay cười nói... Lên cao trên 4.000m dấu hiệu rõ rệt hơn, nhức đầu, buồn nôn, mệt mỏi thất thường, kém trí nhớ, khó thở, tím tái, rối loạn hô hấp...
- Thiếu oxy do bệnh lý:
Một số bệnh tim mạch, phổi và máu làm giảm khả năng vận chuyển oxy của máu dẫn đến thiếu oxy. Tất cả các trường hợp giảm huyết áp, suy tim, sốc, mất máu nhiều, xẹp phổi, viêm phổi, u mạch máu, thông liên nhĩ, thông liên thất, thiếu máu gây giảm số lượng hồng cầu và lượng huyết cầu tố ảnh hưởng đến vận chuyển oxy... Nhiễm độc CO trong các trường hợp: có khí than chưa đốt cháy hoàn toàn, bếp than để trong phòng kín gió, kém thoáng khí. Nhiễm độc methemoglobin: có thể do nhiễm độc các hóa chất như kaki chlorat, nitrobeenzol, phenylhydrazin, các hợp chất có As...; viêm phổi, đi tướt dai dẳng, khó thở trầm trọng, tim đập nhanh, yếu, có thể dẫn tới co giật, hôn mê và tử vong.
- Thiếu oxy do rối loạn hô hấp tế bào:
Hô hấp tế bào là một quá trình oxy hóa - khử phức tạp, diễn ra nhờ hệ thống men hô hấp được phân thành những phản ứng dây chuyền liên quan chặt chẽ với nhau. Vì vậy chỉ một khâu trong chuỗi phản ứng này bị rối loạn, quá trình hô hấp tế bào cũng không thực hiện được, dù oxy được cung cấp đầy đủ, tổ chức cũng không sử dụng được oxy. Nguyên nhân của suy hô hấp tế bào có thể là: Thiếu ăn, đái tháo đường, suy nhựơc gây thiếu sinh tố và thiếu men hô hấp tế bào; nhiễm độc các chất ức chế hô hấp tế bào như thuốc ngủ, CO, H2S, As, fluorua, cyanua, các chất độc tạo ra trong quá trình nhiễm khuẩn, nhiễm độc...